Trao đổi khó khăn, vướng mắc khi tính thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân
Đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính rất phổ biện tại tỉnh Nghệ
An, chiếm phần lớn số lượng hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân. Từ năm 2022, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số
67/2020/QH14 và Luật Phòng chống ma túy có hiệu lực cùng với các văn bản hướng
dẫn ban hành kèm theo có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến
đối tượng, điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cho đến nay, những quy định mới đã
phát huy được hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội. Tuy
nhiên, qua công tác kiểm
sát việc quyết định đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân,
nhận thấy vẫn còn khó khăn, vướng mắc trong cách tính thời hiệu áp dụng đối với
biện pháp này. Cụ thể như sau:
1. Quy định về
thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Tại điểm d Khoản
2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “d) Thời hiệu áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá
nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật
này;”
Khoản 1 Điều 96
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Đối tượng áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18
tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không
có nơi cư trú ổn định.”
Đến năm 2020,
Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC năm 2012 và có hiệu
lực thi hành từ 1/1/2022. Theo đó, quy định về thời hiệu áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012
vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 96 về đối tượng áp dụng Biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC sửa đổi, bổ sung được quy định
hoàn toàn mới như sau “Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên thuộc
trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định
của Luật Phòng, chống ma túy.”
Điều 32 Luật Phòng chống ma túy quy định:
“Điều 32. Đối tượng bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Người
nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1.
Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện;
2.
Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất
ma túy;
3.
Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện
hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay
thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay
thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện;
4.
Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.”
2. Thực tiễn áp
dụng và khó khăn, vướng mắc
Do quy định khoản
1 Điều 96 về đối tượng áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính của Luật
XLVPHC sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã sửa đổi cơ bản so với Luật XLVPHC năm 2012
nên dẫn đến thực tiễn áp dụng về cách tính thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa một số đơn vị
TAND và Viện KSND trên địa bàn tỉnh Nghệ An còn có quan điểm khác nhau.
Ví dụ:
Ngày 09/01/2024, Nguyễn Văn A bị Công an xã phát hiện đang sử
dụng ma túy. Trạm y tế xã NV, huyện NL tiến hành xét nghiệm nghiện và kết luận
tại Phiếu kết quả xét nghiệm nghiện chất ma túy: Nguyễn Văn A đang nghiện ma
túy dạng Heroin.
Ngày 16/01/2024, tại Biên bản
số 01/BB-VPHC, Nguyễn Văn A bị UBND xã NV lập “Biên bản vi phạm về cai nghiện ma
túy tự nguyện, quản lý sau cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế” vì không đăng ký cai nghiện tự nguyện theo quy
định. Ngày 22/3/2024, Trưởng phòng Lao động Thương binh và xã hội huyện NL đã
có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân huyện NL xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông
A theo
quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy.
Ngày 17/4/2024,
TAND huyện NL mở phiên họp và ban hành Quyết
định số 09/2024/QĐ-TA
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối
với ông A.
- Quan điểm thứ
nhất: Tòa án ban hành
Quyết định số 09/2024/QĐ-TA ngày 17/2/2024 áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với ông A là sai vì thời hiệu
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đối với ông A đã hết. Vì theo quy định về thời hiệu tại Điểm d
Khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hiệu áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tính kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối
hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 tức là ngày người đó sử dụng ma
túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính theo quy
định (Từ ngày 9/1/2024 đến ngày 17/04/2024 quá 3 tháng). Còn việc ông A không đăng ký cai nghiện tự
nguyện và UBND xã NV lập Biên bản số 01/BB-VPHC vào ngày 16/01/2024 chỉ là căn
cứ để xác định ông A thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Phòng chống ma
túy năm 2021 và Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021: “1. Người nghiện
ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Không đăng ký, không thực hiện hoặc
tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện”.
- Quan điểm thứ
hai: Thời hiệu xem
xét áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với ông A tính từ ngày ông A bị
UBND xã NV lập biên bản vi phạm hành chính vì không đăng ký cai nghiện - ngày 16/01/2024,
vì đó chính là ngày đối tượng thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC, bởi lẽ khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC quy định “Người
nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy”, vì
vậy để xác định một người thực hiện hành vi vi phạm theo khoản 1 Điều 96 Luật
XLVPHC thì phải tính từ ngày người đó bị UBND xã (phường, thị trấn) lập biên
bản vi phạm hành chính. Do đó, thời hiệu áp dụng biện pháp XLHC đối với ông A
tính từ ngày tiếp theo của ngày xác định 16/01/2024 tức là từ ngày 17/01/2024,
tính đến ngày 17/4/2024 là vừa tròn 3 tháng. Tòa án nhân dân huyện NL ban hành Quy
định số 09/2024/QĐ-TA ngày 17/2/2024 là đảm bảo quy định về thời hiệu.
*) Qua nghiên cứu, tác giả có quan điểm
đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi vì:
Theo
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC thì “Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy
định tại khoản 1 Điều 96 của Luật này”. Khoản 1 Điều 96 Luật sửa đổi bổ sung Luật XLVPHC năm 2020 thay đổi hoàn
toàn so với quy định cũ và được viện dẫn sang Điều 32 Luật Phòng chống ma túy.
Như
vậy, có thể hiểu hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật sửa đổi, bổ
sung Luật XLVPHC là các hành vi quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 Điều 32 Luật
Phòng chống ma túy. Khi một người nghiện ma túy vi phạm một trong 4 trường hợp
quy định tại Điều 32 thì sẽ lập Biên bản vi phạm về cai nghiện ma túy tự nguyện,
quản lý sau cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế theo Mẫu số 27 Phụ lục II
Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ. Thời
điểm lập Biên bản vi phạm này chính là căn cứ xác định cá nhân đủ điều kiện áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc nên đây là ngày bắt đầu tính thời hiệu áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. (Với cách hiểu này
thì đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 32 Luật Phòng
chống ma túy thì thời hiệu tính từ ngày người nghiện ma túy vi phạm quy định về
điều trị, cai nghiện ma túy tự nguyện bị lập biên bản vi phạm theo mẫu số 27; đối với trường hợp vi phạm quy định
tại khoản 2, khoản 4 Điều 32 Luật Phòng chống ma túy thì thời hiệu áp dụng tính
từ ngày cá nhân sử dụng trái phép chất ma túy cuối cùng bị lập biên bản vi phạm
theo mẫu số 27).
Nếu áp dụng cách tính thời hiệu là từ ngày người vi phạm thực
hiện lần cuối hành vi vi phạm là ngày sử dụng trái phép chất ma túy thì khi áp
dụng vào trường
hợp người nghiện ma túy tự ý
chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị
nghiện thì nhiều trường
hợp sẽ rất khó để còn thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc. (Ví dụ: Ngày 09/01/2024, ông TA sử dụng trái phép chất ma túy
bị cơ quan chức năng phát hiện. Sau đó, ông A đã đăng ký cai nghiện ma túy tự
nguyện, thời gian cai nghiện là sáu tháng. Tuy nhiên, ông A thực hiện cai nghiện
tự nguyện được 3 tháng 15 ngày thì tự ý chấm dứt cai nghiện theo quy định tại
khoản 5 Điều 3 Nghị định 116/2021 của Chính Phủ và bị lập Biên bản vi phạm về
hành vi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện. Nếu trong trường hợp này áp
dụng cách tính thời hiệu là lần thực hiện hành vi sử dụng ma túy cuối cùng của
ông A là ngày 09/1/2024 thì không còn thời hiệu để đưa ông A vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc).
Mặt khác,
tại Điều 41 Nghị định 116/2021 ngày 21/12/2021 của Chính Phủ quy định thành phần
hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ quy định gồm 01 bản tóm tắt lý
lịch, 01 biên bản vi phạm một trong các hành vi vi phạm pháp luật về đăng ký
cai nghiện, cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, quản lý sau cai
nghiện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế
theo Mẫu
số 27 Phụ lục II Nghị
định này;
01 bản sao Phiếu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy của cơ quan có thẩm
quyền; 01 bản tường trình của người bị đề nghị và văn bản đề nghị của cơ quan
có thẩm quyền mà không có thành phần là Biên bản vi phạm về hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy của đối tượng.
Như
vậy, theo tác giả quy định tính thời hiệu tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý
vi phạm hành chính kể từ ngày cá nhân thực
hiện lần cuối hành vi vi phạm chỉ phù hợp quy định của khoản 1 Điều 96 của Luật XLVPHC
năm 2012 chưa được sửa đổi, bổ sung mà
không còn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành
chính sửa đổi bổ sung năm 2020.
3.
Đề xuất
Mặc dù quy định về thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc tại điểm d, khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012 không
sửa đổi, bổ sung nhưng khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC lại sửa đổi cơ bản. Đến nay,
Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24
tháng 12 năm 2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi
hành một số quy định của pháp luật về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân hưỡng dẫn về cách tính thời
hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã không còn phù hợp; trong khi đó, thời
hiệu áp dụng cho biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc rất ngắn (3 tháng)
mà trình tự, thủ tục để xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC này đòi hỏi quy
trình chặt chẽ. Do đó, đề xuất Viện KSND tối cao, TAND tối cao cần sớm ban hành
văn bản hướng dẫn cụ thể cách tính thời hiệu đối với trường hợp áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được
chính xác, hạn chế các Quyết định áp dụng BPXLHC của TAND bị hủy; đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyễn Thị Tố Loan – Phòng 10