image banner
Nhận diện một số vi phạm của cơ quan thi hành án dân sự trong việc thu phí thi hành án dân sự

Thời gian qua, thông qua công tác trực tiếp kiểm sát tại các cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) và kiểm sát các hồ sơ THADS, Viện kiểm sát huyện Thanh Chương đã phát hiện những dạng vi phạm phổ biến trong công tác thu phí thi hành án dân sự. Qua đó, đã ban hành các kiến nghị, yêu cầu khắc phục kịp thời, đảm bảo các khoản thu của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Một số dạng vi phạm của Cơ quan thi hành án dân sự trong việc thu phí thi hành án dân sự như sau:

-  Vi phạm 1: Quyết định thu phí thi hành án dân sự được ban hành sau khi chi trả các khoản thi hành khác

Đây là một vi phạm phổ biến trong thu phí thi hành án dân sự. Theo đó, các hồ sơ thi hành án mà Chi cục THADS chi trả bằng tiền mặt cho người được thi hành án, tuy nhiên Chấp hành viên chưa lập dự toán và khấu trừ chi phí thi hành án trước mà đã chi trả toàn bộ số tiền cho người được thi hành án. Sau khi chi trả toàn bộ số tiền cho người được thi hành án, Chấp hành viên mới ban hành Quyết định thu phí thi hành án dân sự. Việc làm trên của Chấp hành viên có thể gây khó khăn trong việc thu các khoản thu nộp ngân sách nhà nước.

Ví dụ: Qua kiểm sát tại Chi cục THADS cùng cấp, VKS phát hiện có 02 hồ sơ yêu cầu thi hành án như sau: Hồ sơ THA theo QĐ thi hành án theo yêu cầu số 05 ngày 18/10/2022, người được thi hành án Ngân hàng A; Người phải thi hành án Lê Thị H, Trần Sơn H Hồ sơ THA theo QĐ thi hành án theo yêu cầu số 62 ngày 05/4/2022, người được thi hành án ông Võ Đức B; Người phải thi hành án Lê Thị H, Trần Sơn H (cả hai hồ sơ đều cùng một người phải thi hành án là Lê Thị H, Trần Sơn H). Chi cục thi hành án đã thu được số tiền 134.924.000 đồng từ người phải thi hành án bà Lê Thị H, ông Trần Sơn H. Sau khi trừ án phí số tiền 4.924.000 đồng Chi cục THADS đã chi trả cho ông Võ Đức B và Ngân hàng A số tiền lần lượt là 109.920.000đ; 20.080.000đ. Sau đó, Chi cục THADS mới thu phí thi hành án của ông Võ Đức B và Ngân hàngA với số tiền 3% của số tiền thực nhận.

Việc làm trên đã vi phạm Điều 5 Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự. Cụ thể:

“4. Việc thu phí thi hành án dân sự được thực hiện như sau:

a) Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chi trả bằng tiền mặt, chuyển khoản hoặc gửi qua bưu điện cho người được thi hành án thì thực hiện việc khấu trừ số tiền phí thi hành án dân sự mà người được thi hành án phải nộp trước khi chi trả cho họ”.

- Vi phạm 2: Thu phí thi hành án đối với khoản chi trả thấp hơn 2 lần mức lương cơ sở

Một số trường hợp, mặc dù người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án với số tiền vượt quá hai lần mức lương cơ sở, tuy nhiên lần chi trả đầu chưa vượt quá hai lần mức lương cơ sở CHV đã tiến hành thu phí tại thời điểm này là chưa đảm bảo phù hợp.

Ví dụ: Hồ sơ THA theo QĐ thi hành án theo yêu cầu thi hành án số 16 ngày 05/10/2023, người phải thi hành án Nguyễn Thị L, người được thi hành án Đinh Xuân D: Ngày 02/10/2023, ông Đinh Xuân D có đơn yêu cầu thi hành án, yêu cầu bà L trả số nợ 60.000.000 đồng theo Bản án của Toà án. Ngày 07/11/2023, bà Nguyễn Thị L nộp được số tiền 1.500.000đ tại Chi cục THADS. Ngày 12/12/2023, bà Nguyễn Thị L nộp được số tiền 500.000 đồng. Chi cục THADS đã làm thủ tục chi trả cho ông D số tiền 2.000.000 vào ngày 17/01/2024. Cùng ngày, Chi cục THADS đã ban hành Quyết định thu phí thi hành án dân sự số 28 cùng ngày để thu phí thi hành án dân sự 3% đối với số tiền 2.000.000đ của ông D.

Việc làm trên đã vi phạm khoản 3 Điều 5 Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự. Cụ thể:

“3. Đối với trường hợp người được thi hành án nhận tiền, tài sản làm nhiều lần mà số tiền, giá trị tài sản được nhận mỗi lần không vượt quá hai lần mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định, nhưng tổng số tiền, giá trị tài sản được nhận lớn hơn hai lần mức lương cơ sở thì vẫn thu phí thi hành án dân sự theo quy định và việc thu phí thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư này.

Ví dụ: Ông B được thi hành án 5.000.000 đồng nhưng ông B được nhận số tiền này trong 04 lần (lần 1 nhận 1.000.000 đồng; lần 2 nhận 1.000.000 đồng; lần 3 nhận 1.000.000 đồng; lần 4 nhận 2.000.000 đồng), số phí thi hành án dân sự mà ông B phải nộp được xác định như sau:

- Lần thứ nhất ông B nhận 1.000.000 đồng thì ông B chưa phải nộp phí.

- Lần thứ hai ông B nhận 1.000.000 đồng thì ông B chưa phải nộp phí.

- Lần thứ ba ông B nhận 1.000.000 đồng thì số phí mà ông B phải nộp sau ba lần nhận tiền là: 3% x (1.000.000 đồng + 1.000.000 đồng + 1.000.000 đồng) = 90.000 đồng.

- Lần thứ tư ông B nhận 2.000.000 đồng thì số phí mà ông B phải nộp là: 3 % x 2.000.000 đong = 60.000 đồng.

Tổng số tiền phí thi hành án dân sự mà ông B phải nộp sau khi nhận số tiền 5.000.000 đồng là 90.000 đồng + 60.000 đồng = 150.000 đồng, cũng bằng tổng số phí thi hành án dân sự trong trường hợp nhận tiền, tài sản 01 lần là 3% x 5.000.000 đồng = 150.000 đồng”.

-       Vi phạm 3: Không tiến hành xác minh để tổ chức thu phí thi hành án

Quá kiểm sát, một số hồ sơ thi hành án, sau khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự huyện đã ban hành Quyết định Yêu cầu thi hành án và tiến hành xác minh điều kiện thi hành án. Tuy nhiên, sau đó, người được thi hành án có yêu cầu Chi cục không tiến hành xác minh do đã nhận được một phần số tiền và thoả thuận được với người phải thi hành án trả theo từng tháng. Chấp hành viên đã ghi nhận thoả thuận nói trên tuy nhiên không làm rõ số tiền đã thu được bao nhiêu, tại thời điểm nào để tổ chức thu phí thi hành án.

Ví dụ: Hồ sơ theo quyết định thi hành án theo yêu cầu số 06 ngày 05/10/2023, đối với người phải thi hành án Đào Thị H: Tại đơn yêu cầu thi hành án đề ngày 24/4/2023 của Ngân hàng A, yêu cầu thi hành bản án số 29/2022/QĐST-DS ngày 16/6/2022 của TAND huyện A, buộc bà Đào Thị H có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng A số tiền 100.948.593 đồng (cả gốc và lãi). Ngày 05/10/2023, Chi cục THADS huyện Thanh Chương đã ban hành Quyết định theo yêu cầu số 06/QĐ-CCTHADS, theo đó bà Đào Thị H có trách nhiệm liên đới trả nợ cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam số tiền 100.948.593 đồng. Tại Biên bản việc giải quyết thi hành án ngày 14/3/2024, có nội dung: ông Phan Đức V- đại diện theo pháp luật của Ngân hàng A trình bày như sau:“Hiện nay Đào Thị H đã trực tiếp nộp cho ngân hàng chúng tôi số tiền 90.000.000 đồng và hiện đang tiếp tục thi hành theo từng tháng. Vậy đề nghị Chi cục THADS không tiến hành xác minh hay làm việc với bà H đến khi nào bà H nộp đủ số tiền…”. Chấp hành viên đã không tiến hành xác minh số tiền 90.000.000 đồng nói trên tự nguyện giao cho người được thi hành án khi nào để tiến hành thu phí thi hành án, gây thất thoát các khoản thu cho nhà nước.

Vi phạm khoản 4 Điều 4 Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự. Cụ thể:

“…4. Đối với trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng chưa ra quyết định cưỡng chế thi hành án hoặc đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng chưa thực hiện việc cưỡng chế thi hành án mà đương sự tự giao, nhận tiền, tài sản cho nhau thì người được thi hành án phải nộp 1/3 mức phí thi hành án dân sự quy định tại khoản 1 Điều này tính trên số tiền, tài sản thực nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 8 Điều 6 Thông tư này”.

-  Vi phạm 4: Không tổ chức thu phí thi hành án đối với người được thi hành án khi nhận tiền bồi thường thiệt hại về tài sản

Xuất phát từ lý do Chấp hành viên tổ chức thi hành án nhầm lẫn giữa các khoản bồi thường thiệt hại về sức khoẻ và khoản bồi thường thiệt hại về tài sản, chính vì vậy không tổ chức thu phí thi hành án đối với khoản chi trả này. Việc này gây thất thoát đối với các khoản thu cho nhà nước.

Ví dụ: Bản án hình sự số 29/HSST ngày 02/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện A quyết định bị cáo Võ Kiều B bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại là anh Đặng Văn H số tiền 12.000.000đ. Sau khi có đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự đã ban hành QĐ thi hành án theo yêu cầu và tiến hành xác minh điều kiện thi hành án. Qua tổ chức thi hành án, đã thu được số tiền 12.000.000đ và chi trả cho anh H. Chi cục THADS đã không tiến hành thu phí đối với khoản chi trả nêu trên.

Vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 6 thông tư 216/2016/TT- ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự, cụ thể:

Người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án dân sự khi nhận các khoản tiền, tài sản thuộc các trường hợp sau đây: 1. Tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; tiền lương, tiền công lao động; tiền trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc; tiền bảo hiểm xã hội; tiền bồi thời thiệt hại vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động…”.

-  Vi phạm 5: Tổ thực hiện mức thu phí THA không đúng theo qui định

Mức thu phí thi hành án được quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên một số trường hợp do CHV không ghi nhận sự thoả thuận của các đương sự, dẫn đến mức thu phí các khoản chi trả không đúng quy định.

Ví dụ: Quyết định thi hành án số 219/QĐ-CCTHA ngày 13/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự, đối với người phải thi hành án bà Nguyễn Thị P, người được thi hành án Đặng Hải Y, bà P có nghĩa vụ trả cho bà Y số tiền 300.000.000 đồng. Ngày 28/2/2023, Chấp hành viên lập biên bản giải quyết THA đối với đương sự, nội dung: “… Bà P chuyển nhượng cho bà Y 01 lô đất ở với giá trị tương đương 150.000.000 đồng và bà P tự trả thêm cho bà H tiền mặt 150.000.000 đồng…”. Cùng ngày, Chi cục đã ban hành Quyết định thu phí THA số 144/QĐ-CCTHA để thu phí 300.000.000 đồng x 3% = 9.000.0000 đồng và Chấp hành viên hành viên đã lập biên lai thu phí số tiền trên.

Trường hợp trên, bà P và bà H đã có thoả thuận chi thực hiện thi hành án, vì vậy mức thu phí thi hành án của bà P là 1/3 so với mức không thoả thuận, tương đương 1/3x300.000.000 đồng x3%= 3.000.000 đồng. Việc không ghi nhận thoả thuận của đương sự và tiến hành thu phí 3% của mức thực nhận là vi phạm, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người phải thi hành án là bà Y.

Vi phạm khoản 2, Điều 46 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Cụ thể: “Trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án và chứng kiến các đượng sự thỏa thuận tự giao nhận tiền, tài sản cho nhau thì phải chịu 1/3 mức phí thi hành án qui định tại khoản 1, Điều này”

-  Vi phạm 6: Không gửi số tiền được thi hành án vào ngân hàng/ kho bạc 

Sau khi được thông báo về việc nhận tiền thi hành án, tuy nhiên người được thi hành án không đến nhận. Quá thời hạn 15 ngày tuy nhiên Chấp hành viên vẫn để số tiền trên tại Quỹ cơ quan thi hành án dân sự.

Ví dụ: Hồ sơ THA theo QĐ thi hành án theo yêu cầu thi hành án số 16 ngày 05/10/2023, người phải thi hành án Nguyễn Thị L, người được thi hành án Đinh Xuân D:  Ngày 02/10/2023, ông Đinh Xuân D có đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 07/11/2023, bà Nguyễn Thị L nộp được số tiền 1.500.000đ tại Chi cục THADS. Ngày 12/12/2023, bà Nguyễn Thị L nộp được số tiền 500.000 đồng.  Ngày 14/3/2024, bà Nguyễn Thị L nộp số tiền 2.000.000 đồng. Chi cục THADS đã có thông báo nhận tiền và tài sản (lần 1: ngày 14/3/2024, lần 2: 03/5/2024). Tuy nhiên, ông D chưa đến nhận. Quá thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông báo (lần 1: ngày 14/3/2024, lần 2: 03/5/2024), mà CHV không tiến hành các thủ tục gửi số tiền này vào ngân hàng/ kho bạc.

Vi phạm khoản 4 Điều 18 Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự. Cụ thể:

“4. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo mà người được nhận tiền không đến nhận tiền, cơ quan thi hành án dân sự xử lý vụ việc theo quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ. Đối với khoản tiền không đủ điều kiện gửi ngân hàng theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự lập bảng kê chi tiết các khoản tiền và gửi vào tài khoản tạm gửi tại Kho bạc”.

Trên đây là một số dạng vi phạm của Cơ quan thi hành án dân sự trong việc thu phí thi hành án dân sự được phát hiện qua kiểm sát thi hành án dân sự. Tác giả đã tổng hợp nhằm giúp kiểm sát viên nhận diện rõ hơn về những dạng vi phạm, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiến nghị, kháng nghị trong thi hành án dân sự./.

Trần Văn Phú

Viện KSND huyện Thanh Chương

 

THÔNG BÁO
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1