Chi bộ Phòng 2, Viện KSND tỉnh Nghệ An tổ chức sinh hoạt Chuyên đề “Nâng cao kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm”
Thực hiện kế hoạch
sinh hoạt chuyên đề năm 2025 của
Đảng uỷ Viện kiểm sát nhân dân (KSND) tỉnh Nghệ An, vừa qua, Chi bộ Phòng 2 Viện KSND tỉnh Nghệ An đã tổ chức buổi sinh hoạt
chuyên đề với nội dung “Nâng
cao kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm”. Buổi sinh hoạt có sự tham dự của đồng
chí Hồ Sỹ Cấp - Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ Viện KSND tỉnh cùng toàn thể đảng viên trong chi bộ.
Tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát
viên trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự. Chất lượng tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm tính khách quan,
toàn diện của bản án, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người và trật
tự pháp lý. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Chi bộ Phòng 2 -
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tổ chức chuyên đề sinh hoạt chuyên môn “Nâng cao kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên
tại phiên toà hình sự sơ thẩm” nhằm
nâng cao kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm, góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Toàn cảnh buổi sinh hoạt chuyên đề
Tại buổi sinh hoạt chuyên đề, đồng chí Từ Thị Ngân - Bí thư chi bộ thông
qua nội dung chuyên đề, nhấn mạnh tầm quan trọng của
chuyên đề trong bối cảnh yêu cầu cải cách tư pháp ngày càng cao.
Sau khi nghe đồng
chí Bí thư Chi bộ thông qua chuyên đề, các đảng viên đã thảo luận, phân tích nhiều vụ án cụ thể, rút kinh nghiệm từ thực tiễn công tác, thực tiễn áp dụng
pháp luật trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự. Nhiều ý kiến đề xuất tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tranh tụng cho kiểm sát viên, nâng cao chất
lượng soạn thảo luận tội và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ vụ
án, … nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm.
Sau quá trình thảo
luận sôi nổi, chi bộ đã đề ra một số giải pháp để Kiểm sát viên thực hiện tốt kỹ năng tranh tụng tại phiên toà hình sự
sơ thẩm, đó là:
Một là, chuẩn bị kỹ
lưỡng trước phiên tòa: Kiểm sát viên cần nghiên cứu sâu hồ sơ vụ án, hệ thống
hóa chứng cứ, dự kiến các tình huống có thể xảy ra. Xây dựng đề cương xét hỏi hợp
lý, có trọng tâm, bảo đảm làm rõ hành vi phạm tội và yếu tố cấu thành tội phạm.
Dự đoán các luận điểm phản biện của luật sư, bị cáo để có phương án xử lý phù hợp.
Hai là, rèn luyện
kỹ năng xét hỏi tại phiên tòa: Kiểm sát viên cần đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng,
đúng trọng tâm để làm sáng tỏ hành vi phạm tội. Sử dụng chiến thuật xét hỏi phù
hợp: Đối với bị cáo: Kết hợp câu hỏi đóng (để xác định sự kiện) và câu hỏi mở
(để làm rõ động cơ, mục đích). Đối với người bị hại và nhân chứng: Hướng dẫn
khai báo trung thực, chính xác, tránh bị tác động. Đối với giám định viên và
người có chuyên môn: Khai thác chuyên sâu các nội dung liên quan đến kết luận
giám định.
Ba là, nâng cao kỹ
năng tranh luận và phản biện: Kiểm sát viên bảo vệ quan điểm truy tố bằng cách
sử dụng chứng cứ, lập luận chặt chẽ. Phản biện sắc bén đối với quan điểm bào chữa
của luật sư nhưng vẫn bảo đảm sự khách quan, bình tĩnh và thuyết phục. Sử dụng
ngôn ngữ tranh luận logic, dễ hiểu, tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý quá phức tạp.
Các tình huống thường diễn ra trên thực tế:
Thứ nhất, đối đáp với tình huống bào
chữa theo hướng chứng minh bị cáo vô tội. Trong tình huống này bị cáo, luật sư
thường phân tích, chứng minh các chứng cứ xác định bị cáo vô tội để bác bỏ những
chứng cứ của Kiểm sát viên khi buộc tội bị cáo; đưa ra các tài liệu để chứng
minh việc bị cáo phạm tội không đầy đủ;
hành vi không đủ để cấu thành tội phạm. Khi tranh luận, cần căn cứ vào lý luận
của cấu thành tội phạm, những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, viện dẫn những
chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra vụ án và quá trình xét hỏi, thẩm
tra tại phiên tòa để lập luận có tính logic từng vấn đề, phản bác các ý kiến của
phía đối tượng.
Thứ hai, đối đáp với quan điểm về chứng cứ
không đầy đủ. Về quan điểm bào chữa này chúng ta thường gặp đối với các trường
hợp không quả tang, việc phát hiện vụ án chủ yếu bằng biện pháp truy xét. Trong
trường hợp này, bị cáo thường không nhận tội hoặc trong giai đoạn điều tra nhận
tội, nhưng khi xét xử thì phản cung, thay đổi lời khai. Cũng có trường hợp do
quá trình điều tra có vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, bị cáo, người bào chữa đã lợi dụng các vi phạm này để bác bỏ kết quả điều
tra. Đối với các trường hợp này, Kiểm sát viên phải chuẩn bị kĩ các nội dung để
đối đáp như các chứng cứ buộc tội, xem xét kĩ các biên bản điều tra, gặp bị can, người làm chứng, tiến hành đối chất và nghiên
cứu kĩ các quy định của pháp luật… Đồng thời, Kiểm sát viên cần nắm chắc các dấu
hiệu đặc trưng của tội phạm để chuẩn bị
đối đáp. Trên cơ sở xây dựng đề cương xét hỏi, đề cương đối đáp chi tiết và cụ
thể. Qua xét hỏi, trình bày lời luận tội, Kiểm sát viên cần dự báo các ý kiến của
bị cáo, người bào chữa để bổ sung đề cương đối đáp.
Thứ ba, đối đáp với quan điểm về hành vi
không cấu thành tội. Về quan điểm này chúng ta thấy bị cáo, người bào chữa thừa
nhận bị cáo có hành vi trái pháp luật nhưng hành vi đó không cấu thành tội phạm.
Đó là trường hợp thường gặp như: phòng vệ chính đáng, bị kích động mạnh tinh thần
do hành vi trái pháp luật của nạn nhân, sự kiện bất ngờ, tình thế khẩn cấp. Đây
là những trường hợp cũng khá phức tạp về lý luận và thực tiễn. Do vậy, Kiểm sát
viên phải nắm chắc các tình tiết nội dung vụ án, động cơ, mục đích phạm tội,
các dấu hiệu đặc trưng của từng loại tội. Trên cơ sở đó xây dựng cho mình quan
điểm bảo vệ cáo trạng có lý, có tình, tạo sự ủng hộ, đồng tình của dư luận.
Thứ tư, đối đáp với tình huống bào chữa về
tội danh khác nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Đây là tình huống mà
trong thực tiễn thường hay xảy ra, tình huống này, bị cáo và người bào chữa thừa
nhận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội phạm, nhưng phạm tội nhẹ hơn tội Viện
kiểm sát truy tố. Đối với các trường hợp này, Kiểm sát viên cần nắm vững các dấu
hiệu đặc trưng của tội phạm truy tố và các
tội có những dấu hiệu giống tội phạm bị truy
tố;
các điểm khác nhau cơ bản giữa các tội danh và các tình tiết của vụ án để phân
tích trong việc đối đáp bảo vệ cáo trạng.
Thứ năm, đối đáp với tình huống bào chữa
cho rằng bị cáo phạm tội về các khoản khác nhẹ hơn khoản mà Viện kiểm sát truy
tố. Bị cáo, người bào chữa thường lợi dụng sự thiếu hướng dẫn của pháp luật
trong một số tình tiết như: Thực hiện tội phạm một cách man rợ, có tính chất
côn đồ, có tổ chức… (có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nhưng vẫn còn
chung chung, nên thực tế vận dụng còn rất tùy nghi), để đối đáp với các tình huống này, Kiểm sát viên cần nắm vững
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, các Nghị quyết của Hộng đồng Thẩm
phán, thông tư liên tịch, các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự để làm căn cứ đối đáp với các ý kiến để nghị xét giảm nhẹ
hoặc chuyển khung hình phạt nhẹ. Đồng thời, Kiểm sát viên cần bám sát các tình
tiết của vụ án để phân tích và đối đáp cho phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ sáu, đối đáp tình huống bào chữa
đưa ra sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, bỏ lọt tội phạm để đề nghị trả
hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Thực tế hiện nay người bào chữa thường tập
trung vào những vi phạm về thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, như thiếu chữ ký, có sự tẩy xoá, sửa
chữa, ghi ngày, tháng, năm hoặc triệu tập người tham gia tố tụng tại phiên toà
không đầy đủ, không có chữ ký của Luật sư trong bản cung.v.v… từ đó để đề nghị
Hội đồng xét xử không công nhận những nội dung trong tài liệu đó, đề nghị Hội đồng
xét xử cho trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đề nghị hoãn phiên tòa để thẩm
tra, xác minh những tài liệu đó.
Đ/c Hồ Sỹ Cấp phát biểu chỉ đạo
Trong
những trường hợp như vậy, Kiểm sát viên phải nắm chắc các chứng cứ, vận dụng những
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Thông tư 02/2017 về mối
quan hệ giữa các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc trả lại hồ
sơ điều tra bổ sung để khẳng định tính có căn cứ, hợp pháp của tài liệu có
trong hồ sơ vụ án, đồng thời chú ý thẩm tra, xác minh công khai tại phiên tòa
những thiếu sót về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra để khẳng định bản
chất của vụ việc đang được xem xét và phản bác những ý kiến của người bào chữa
đưa ra.
Bốn là, xử lý linh
hoạt các tình huống phát sinh tại phiên tòa: Khi bị cáo thay đổi lời khai: Kiểm
sát viên cần phân tích lời khai cũ và mới, đối chiếu với các chứng cứ để xác định
tính trung thực. Khi luật sư đưa ra chứng cứ mới: Đánh giá tính hợp pháp và giá
trị chứng minh của chứng cứ đó, thể hiện rõ quan điểm của Viện kiểm sát.
Năm là, ứng dụng
công nghệ và phương pháp trực quan trong tranh tụng: Kiểm sát viên cần linh hoạt
trong việc sử dụng sơ đồ, hình ảnh, video (nếu có) để minh họa lập luận một cách
thuyết phục. Ứng dụng phần mềm quản lý hồ sơ vụ án để hỗ trợ việc tìm kiếm và
trích xuất chứng cứ nhanh chóng.
Sáu là, đào tạo, bồi
dưỡng và thực hành kỹ năng tranh tụng: Cần thường xuyên tổ chức phiên tòa giả định
để rèn luyện kỹ năng thực tiễn. Học tập kinh nghiệm từ các vụ án điển hình,
tham khảo phương pháp tranh tụng của Kiểm sát viên giỏi. Tăng cường sinh hoạt
chuyên môn, thảo luận các tình huống khó để nâng cao kỹ năng xử lý.
Việc nâng cao kỹ
năng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm không chỉ giúp Kiểm sát viên thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố mà còn góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo
vệ công lý. Để thực hiện hiệu quả chuyên đề này, Chi bộ Phòng 2 - Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Nghệ An đã thảo luận và đề xuất:
Một là, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo chuyên môn tổ chức
các buổi tập huấn, tiếp tục lãnh đạo các chi bộ tổ chức sinh hoạt chuyên đề về nâng
cao chất lượng công tác chuyên môn.
Hai là, Đảng bộ lãnh đạo chuyên môn xây dựng kho dữ liệu
về các tình huống tranh tụng thực tế để phục vụ công tác nghiên cứu và rèn luyện
kỹ năng.
Ba là, tạo điều kiện, khuyến khích Kiểm sát viên học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn.
Phát biểu tại buổi sinh hoạt chuyên đề, đồng chí Hồ Sỹ
Cấp - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Phó viện trưởng Viện KSND Tỉnh đánh
giá công tác chuẩn bị, ý nghĩa tác dụng của chuyên đề đối với Kiểm
sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiẻm sát xét xử các vụ án hình
sự.
Buổi
sinh hoạt chuyên đề đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đồng thời giúp nâng cao chất lượng công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự. Đây là hoạt động
thiết thực, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Chi
bộ Phòng
2 Viện KSND tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
Tổ
tuyên truyền Phòng 2
Viện KSND tỉnh Nghệ An