Một số vấn đề cần lưu ý trong công tác Kiểm sát việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay
Năm 2022 là năm đánh dấu sự thay đổi lớn trong công tác cai nghiện ma túy
bắt buộc với sự bổ sung, thay thế của nhiều văn bản, trực tiếp nhất là Luật Xử
lý vi phạm hành chính và Luật Phòng chống ma túy, mặt khác là sự thay thế, bổ
sung của các Nghị định, Thông tư có liên quan. Sự thay đổi này được đánh giá là
cần thiết trong bối cảnh việc cai nghiện bắt buộc (CNBB) cần phải hiệu quả hơn,
đáp ứng được xu hướng hiện nay khi công tác phòng chống ma túy đang ngày càng
phức tạp, người nghiện ma túy đang có chiều hướng gia tăng và không ngừng trẻ
hóa. Từ thực tiễn như vậy, đòi hỏi Ngành Kiểm sát nhân dân trong khâu công tác
này phải có sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới nhằm theo kịp sự thay đổi của pháp
luật cũng như thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và Nhân
dân giao phó.
1. Sự thay đổi về pháp luật trong công tác cai nghiện bắt buộc
Trước đây, các chế tài quản lý mới chỉ áp dụng cho người được xác định là
nghiện ma túy. Trong khi đó, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chỉ bị xử
phạt hành chính cao nhất là 01 triệu đồng nên không đủ sức răn đe. Một số
trường hợp sử dụng ma túy dẫn đến loạn thần, “ngáo đá” gây ra một số vụ án
nghiêm trọng, làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do đó, vấn đề đặt ra ở
đây là cần có quy định quản lý những đối tượng sử dụng ma túy (Không phải người
nghiện ma túy), để vừa có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn các hậu quả do ma túy
gây ra từ sớm.
Một vấn đề nổi cộm khác trong công tác cai nghiện ma túy trước đây, đó là
chưa có những quy định về việc cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người dưới 18
tuổi. Trong khi đó, việc sử dụng ma túy ở lứa tuổi này hiện nay ngày càng gia
tăng, hệ lụy từ sự phát triển của kinh tế xã hội, công nghệ thông tin làm cho
lớp trẻ rất dễ tiếp cận, mua bán khi có nhu cầu, vì vậy yêu cầu đặt ra cần có
những biện pháp để quản lý các đối tượng này.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, quá trình áp dụng các biện pháp cai
nghiện ma túy nói chung và biện pháp áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở CNBB nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập như: Các mẫu văn bản chưa được quy
định một cách thống nhất (Mỗi ngành có liên quan đều có Thông tư hướng dẫn mẫu riêng);
việc áp dụng còn mất nhiều thời gian và kéo dài do phải trải qua nhiều cơ quan
xem xét, đề nghị…
Luật xử lý vi phạm hành chính năm (sửa đổi bổ sung năm 2020), Luật phòng
chống ma túy năm 2021 và các Nghị định: 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021, Nghị định
116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021… ra đời đã cơ bản giải quyết được những bất cập
nêu ra ở trên. Cụ thể:
Luật Phòng, chống ma tuý năm 2021 đã quy định rõ các biện pháp quản lý
người sử dụng ma túy. Đây là biện pháp phòng ngừa, không phải xử phạt hành chính,
không liên quan đến lý lịch, nhân thân của người đó. Việc quy định như vậy thể
hiện rõ tinh thần giáo dục nhằm giúp họ tránh xa ma túy. Đồng thời, pháp luật
đã có những quy định mới so với trước đây về các đối tượng từ đủ 18 tuổi trở
lên thuộc trường hợp phải đưa đi cai nghiện bắt buộc.
Bên cạnh đó, một trong những nội dung mới của Luật Phòng, chống ma túy
năm 2021 là quy định về đưa vào cơ sở CNBB đối với người nghiện ma túy từ đủ 12
tuổi đến dưới 18 tuổi. Tiếp đó, ngày 24/3/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh số 01/2022/UBTVQH15 quy định về trình tự, thủ tục Tòa án
nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến
dưới 18 tuổi vào cơ sở CNBB (PL01/2022).
Ngoài ra, một số khó khăn, vướng mắc khác cũng đã được các văn bản quy
phạm pháp luật mới giải quyết như việc hiện nay đã thống nhất được mẫu văn bản
sử dụng trong hồ sơ đề nghị; thời gian lập hồ sơ và xem xét đề nghị áp dụng đã
được rút ngắn đáng kể…
2. Một số vấn đề cần lưu ý khi thực hiện công tác kiểm sát việc áp
dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc
Như đã đề cập, giai đoạn hiện nay là giai đoạn các cán bộ Kiểm sát cần
phải có sự tìm hiểu, cập nhật các quy định mới của pháp luật về việc áp dụng
biện pháp cai nghiện bắt buộc, đảm bảo việc áp dụng biện pháp CNBB được thực
hiện nghiêm chỉnh và đúng quy định. Thực tiễn trên địa bàn huyện Nghi Lộc, từ
đầu năm 2022 (Thời điểm Luật mới có hiệu lực thi hành), Viện KSND huyện đã phát
hiện 07 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp CNBB không đủ điều kiện áp dụng, kịp
thời yêu cầu Tòa án có yêu cầu đối với cơ quan có thẩm quyền bổ sung hồ sơ, đảm
bảo việc thu thập tài liệu đúng quy định, không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị đề nghị. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin đưa
ra một số lưu ý khi thực hiện công tác này:
2.1. Đề nghị áp dụng biện pháp CNBB
đối với đối tượng không thuộc trường hợp phải CNBB:
Trước đây, đối tượng bị áp dụng phổ biến là người nghiện ma túy và đã
được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện. Các
cơ quan có liên quan hầu như chỉ căn cứ vào phiếu xét nghiệm dương tính với ma
túy để đề nghị áp dụng. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật đã quy định rõ người bị
đề nghị áp dụng phải là người nghiện (Xác định thông qua Phiếu xác định tình
trạng nghiện ma túy do cơ quan có thẩm quyền cấp theo Mẫu 04 hoặc 05 Ban hành
kèm theo Nghị định 109/2021/NĐ-CP ngày 08/12/2021). Nếu chỉ xác định người đó
dương tính với ma túy mà không xác định người đó người nghiện ma túy thì không
có căn cứ để đưa người đó đi cai nghiện bắt buộc.
2.2. Thời hạn, trình tự thủ tục
trong việc lập hồ sơ có sự thay đổi:
Theo quy định mới, thời hạn và trình tự thủ tục trong việc lập hồ sơ đã
rút ngắn hơn rất nhiều so với trước đây. Hiện nay, thời hạn cho người bị đề
nghị đọc hồ sơ chỉ còn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận thông báo (Trước đây là
05 ngày), thời hạn phòng Lao động, Thương binh & Xã hội (Phòng LĐ, TB&XH)
chuyển hồ sơ cho Tòa án là 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ (Trước đây là
07 ngày). Bên cạnh đó, quy định mới đã lược bỏ vai trò của Phòng Tư pháp cấp
huyện trong việc thẩm định hồ sơ.
2.3. Các mẫu văn bản đã được thay
đổi mới so với trước đây:
Trước đây các biểu mẫu không có sự thống nhất trong quá trình lập hồ sơ
CNBB. Một phần nguyên nhân là do công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
thời gian đó còn hạn chế. Các quy định mới đã gần như khắc phục được các bất
cập trên. Khi kiểm sát hồ sơ chúng ta cần chú ý các mẫu văn bản đã được quy
định cụ thể tại Nghị định 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 (Mẫu văn bản về các
thủ tục trong hồ sơ do UBND xã, phòng LĐ, TB&XH thiết lập), Nghị định
105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 (Mẫu văn bản về xác định và quản lý người sử
dụng ma túy), Nghị định 109/2021/NĐ-CP ngày 08/12/2021 (Mẫu văn bản về việc xác
định tình trạng nghiện ma túy).
3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định trong thời gian tới
Pháp luật điều chỉnh tuy đã có những thay đổi đáng kể và đã khắc phục cơ
bản những khó khăn, vướng mắc trước đây. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
khâu công tác kiểm sát việc áp dụng cai nghiện bắt buộc, tác giả có một số kiến
nghị, đề xuất như sau:
3.1. Cần quy định Viện kiểm sát có
quyền ban hành yêu cầu xác minh, bổ sung, thu thập chứng cứ (Khi kiểm sát hồ sơ
thấy chưa đảm bảo căn cứ).
Mặc dù tại khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH14 ngày 20/01/2014
(PL 09/2014) và khoản 1, Điều 4 PL 01/2022, pháp luật quy định Viện kiểm sát “... thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải quyết kịp thời, đúng pháp luật”. Tuy
nhiên không giống như trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, áp
dụng biện pháp xử lý hành chính không quy định rõ Viện KSND có quyền yêu cầu
Tòa án xác minh, bổ sung, thu thập chứng cứ. Việc đề ra các yêu cầu có ý nghĩa
quan trọng và là công cụ hữu hiệu để Viện kiểm sát thể hiện được vai trò, chức
năng của ngành đồng thời đảm bảo cho pháp luật được thực hiện đầy đủ, thống
nhất.
3.2. Cần quy định việc giao nhận hồ
sơ giữa các cơ quan hữu quan phải được lập biên bản.
Để kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hữu quan mà cụ
thể là UBND xã, Công an xã, Phòng LĐ, TB & XH trong việc thiết lập hồ sơ,
một trong những tài liệu quan trọng mà Viện kiểm sát sử dụng đó là biên bản
giao nhận hồ sơ giữa các cơ quan này. Biên bản giao nhận hồ sơ chính là căn cứ
để thể hiện việc giao nhận hồ sơ, hay việc xử lý hồ sơ sau khi nhận hồ sơ có
đúng thời hạn hay không?
Ngoài Nghị định 116/2021/NĐ-CP đã được đề cập, Luật xử lý vi phạm hành
chính (Sửa đổi, bổ sung) đã kéo theo việc ra đời Nghị định 140/2021/NĐ-CP ngày
31/12/2021 về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ
sở giáo dục bắt buộc, thay thế cho các Nghị định cũ. Hai Nghị định được ra đời
trong cùng một bối cảnh nhưng nội dung về việc lập biên bản giao nhận có sự
khác nhau. Cụ thể tại khoản 4, Điều 13 Nghị định 140/2021/NĐ-CP quy định rõ: “Việc giao, nhận hồ sơ phải được lập biên
bản”, tuy nhiên tại Nghị định 116/2021/NĐ-CP hoàn toàn không có quy định
này. Nếu không có sự ràng buộc giữa các cơ quan trong việc lập biên bản giao
nhận hồ sơ đề nghị áp dụng CNBB thì sẽ dẫn đến khi hồ sơ CNBB bị quá thời hạn
giải quyết sẽ không làm rõ được trách nhiệm cụ thể.
3.3. Viện kiểm sát cần được tham
gia vào việc xem xét hoãn, miễn chấp hành, giảm thời
hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý
hành chính còn lại.
CNBB là một biện pháp xử lý hành chính, do đó các quy định điều chỉnh
việc xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính nói chung cũng đồng thời điều
chỉnh việc xem xét áp dụng biện pháp CNBB. Theo PL09/2014 và PL01/2022, phạm vi
tham gia của Viện kiểm sát trong việc xem xét việc hoãn, miễn chấp hành, giảm
thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng các biện pháp
xử lý vi phạm hành chính còn bị hạn chế rất nhiều, mặc dù kiểm sát tốt hoạt
động này cũng góp phần quan trọng trong việc bảo đảm biện pháp CNBB được thực
thi nghiêm túc và hiệu quả. Theo quy định, Viện kiểm sát chỉ được nghiên cứu hồ
sơ tại trụ sở Tòa án, chỉ trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát mới được có
ý kiến bằng văn bản trước khi Tòa án ra quyết định. Trong khi thời gian để Tòa
án ra quyết định là rất ngắn (05 ngày làm việc), để xác định đâu là trường hợp
cần thiết thì cũng chưa có hướng dẫn cụ thể, mặt khác đây là quy định mang tính
tùy nghi nên trên thực tế Viện kiểm sát chưa tham gia được vào kiểm sát các hồ
sơ đề nghị xem xét hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, ... để đảm bảo có căn
cứ hay không? Do vậy, Viện kiểm sát cần phải được nghiên cứu hồ sơ, có phát
biểu quan điểm như khi đưa vào cai nghiện bắt buộc.
3.4. Ngành kiểm sát cần sớm ban
hành quy chế về Kiểm sát phiên họp xem xét đưa người từ 12 đến 18 tuổi vào cơ
sở cai nghiệm bắt buộc
Cũng tương tự như PL 09/2014, PL01/2022 tiếp tục quy định về sự tham gia
của Viện kiểm sát trong công tác xem xét việc áp dụng biện pháp CNBB PL01/2022
và PL09/2014 vừa có những điểm tương đồng nhưng lại vừa có những điểm riêng
biệt, đòi hỏi cơ quan Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cần phải chú
ý để không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị đề nghị, đặc biệt là
các đối tượng từ 12 đến 18 tuổi. Có thể kể đến một số khác biệt của PL01/2022 như:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bí mật đời sống riêng tư của người bị đề nghị; phiên
họp phải được tổ chức thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị đề nghị, phòng họp được bố trí thân thiện, an toàn; trang phục của người
tiến hành phiên họp; quy định về việc Tòa án và Thẩm phán được tham vấn ý kiến
hoặc yêu cầu chuyên gia trong một số trường hợp đặc biệt…
Hiện nay, cán bộ Ngành Kiểm sát trong khâu công tác
này đang thực hiện theo Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 299/QĐ-VKSTC năm
2020 ngày 19/8/2020 về kiểm sát việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính tại Tòa án nhân dân. Với sự ra đời của Pháp lệnh mới đòi hỏi một
Quy chế hướng dẫn đặc thù riêng, giúp cho Kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ có
thể thực hiện tốt nhiệm vụ, qua đó thể hiện vai trò, chức năng của Ngành. Bên
cạnh đó, Viện KSND tối cao cần tổ chức các buổi tập huấn để quán triệt các quy
định pháp luật mới cũng như định hướng hoạt động khâu công tác này trong thời
gian tới, để thực sự hướng đến sự đột phá, toàn diện của khâu công tác Dân sự -
Hành chính theo chủ trương, kế hoạch của Ngành Kiểm sát nhân dân./.
Trần Hoàng Thắng
VKSND huyện Nghi Lộc