Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Sau hơn 4 năm thi hành, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong xã hội, phát huy truyền thống phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, nâng cao vai trò trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tôn trọng và chấp hành các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác công tác kiểm sát thấy rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn còn có một số hạn chế, bất cập như sau:
1. Về quy định chế độ tài sản của vợ chồng:
- Theo khoản 2 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Tuy nhiên, Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn” mà không quy định hình thức của văn bản thỏa thuận là điều kiện có hiệu lực. Thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng là một giao dịch dân sự, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và người thứ ba, cho nên nếu không quy định điều kiện có hiệu lực của văn bản thỏa thuận thì sẽ không đầy đủ và chặt chẽ.
- Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định điều kiện về mặt hình thức và thời điểm xác lập về chế độ tài sản của vợ chồng.
Khoản 2 Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định:
“1. Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.
2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.
Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc”.
Như vậy, theo các quy định ở trên không có điều, khoản nào quy định cơ quan đăng ký kết hôn phải ghi nhận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hoặc phải kiểm tra việc tồn tại hay không chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Mặt khác, Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ quy định thời điểm xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là trước khi kết hôn nhưng chưa quy định điều kiện để bảo đảm thực hiện. Vì vậy, cần bổ sung quy định cơ quan có thẩm quyền ghi nhận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và điều kiện đảm bảo chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba khi tham gia giao dịch tài sản vợ chồng.
2. Về quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định nhiều nội dung mới theo hướng tiến bộ hơn, tuy nhiên vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn còn có bất cập, mâu thuẫn khi được xem xét trong mối tương quan với các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Người chồng bên nhờ mang thai hộ có yêu cầu ly hôn hoặc vợ chồng nhờ mang thai hộ thuận tình ly hôn khi người đồng ý mang thai hộ đang mang thai hoặc sinh con. Hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về trường hợp vợ chồng đang nhờ người mang thai hộ thì người chồng có được ly hôn không. Về vấn đề này đang tồn tại 2 quan điểm:
Quan điểm 1: Trong trường hợp này, vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng không nên đặt ra để bảo đảm bình đẳng về mặt pháp lý giữa hai vợ chồng, vì lúc này người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh không thực hiện chức năng làm mẹ.
Quan điểm 2: Cần hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng khi người mang thai hộ đang mang thai, sinh con.
Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai có cơ sở hơn vì tại Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra. Bên cạnh đó, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Như vậy, việc sinh đẻ của người đồng ý mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp lý cha mẹ và con giữa cặp vợ chồng vô sinh nhờ mang thai hộ và đứa trẻ được sinh ra. Nếu người chồng hoặc cả hai vợ chồng vô sinh nhờ mang thai hộ mà thuận tình ly hôn trong khi người đồng ý mang thai hộ “đang mang thai, sinh con” thì có thể dẫn đến việc hôn nhân của họ chấm dứt trước khi người vợ sinh con. Vấn đề đặt ra là việc giải quyết ly hôn sẽ không thể đồng thời giải quyết được vấn đề nuôi con, nếu sau này đứa trẻ được sinh ra và còn sống. Vì con sinh ra vẫn được xác định là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con, đồng thời việc giải quyết vấn đề ai là người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng đối với bên không trực tiếp nuôi con vẫn phải được giải quyết tương tự trường hợp cha mẹ ly hôn bình thường. Việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng khi người mang thai hộ đang mang thai, sinh con quyền lợi của đứa trẻ sinh ra sẽ được đảm bảo.
Thứ hai: Người chồng của người mang thai hộ có quyền yêu cầu ly hôn hoặc vợ chồng người mang thai hộ thuận tình ly hôn khi người mang thai hộ đang mang thai, sinh con hay không.
Mặc dù con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra. Tuy nhiên, khoản 1, 3 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng quy định quyền, nghĩa vụ như cha mẹ của người mang thai hộ và chồng của người mang thai trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ, có trách nhiệm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ và được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội (tối đa là 60 ngày) cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
Do hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề cho phép hay không cho phép người chồng được ly hôn khi người mang thai hộ đang mang thai hoặc sinh con, cho nên cần có quy định chặt chẽ và thống nhất về vấn đề này. Cụ thể, cần hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong trường hợp vợ chồng đang nhờ người mang thai hộ và vợ chồng đang nhận mang thai hộ để từ đó đảm bảo quyền lợi của người vợ và đứa trẻ.
3. Về quy đinh mang thai hộ:
Khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều 95 trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có nội dung như sau:
“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.”
Theo quy định tại điểm b khoản 2 nêu trên thì vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ điều kiện vợ chồng không có con chung. Quy định này đã hạn chế quyền có con thứ hai, trường hợp vợ chồng vì lý do khách quan mà chỉ sinh được một con thì theo quy định trên sẽ không có quyền nhờ người mang thai hộ con thứ hai. Trong khi đó, chính sách của Nhà nước khuyến khích mỗi gia đình có một đến hai con. Đặc biệt, đối với trường hợp vợ chồng đã có con chung, nhưng người con bị khuyết tật nên muốn được nhờ người khác mang thai hộ thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa có quy định này nên cần sửa đổi bổ sung điều này.
Về quy định điều kiện đối với người mang thai hộ tại điểm a khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Theo quy định này, người được nhờ mang thai hộ phải có điều kiện là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ... Tuy nhiên, chưa có quy định cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận cho người có nhu cầu mang thai hộ và trình tự thủ tục như thế nào.
Trần Thị Tâm - Phòng 9
Viện KSND tỉnh Nghệ An