Khó khăn, vướng mắc trong thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của
các quan hệ xã hội, các tranh chấp về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật
nói riêng ở nước ta có xu hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. Bên cạnh đó, tình trạng ly hôn diễn biến
ngày càng gia tăng theo hướng trẻ hóa. Việc tái hôn mà vợ hoặc chồng có con riêng là vấn đề không hề xa lạ.
Trong trường hợp cha dượng, mẹ kế chết mà không có di chúc sẽ dẫn đến việc di sản thừa kế được phân chia theo pháp luật và xảy
ra tranh chấp, mâu thuẫn. Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định
quan hệ về thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế và xác định người thừa kế
thế vị trong trường hợp này còn có rất nhiều vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Việc nhận thức, áp dụng pháp
luật còn chưa thống nhất, thiếu đồng bộ gây ảnh hưởng đến đường lối giải
quyết đúng đắn của vụ án. Từ đó,
việc phân chia di sản thừa kế thường dẫn đến tranh chấp khi có yếu tố con riêng
của vợ hoặc chồng. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn tới nhiều
bi kịch của một số gia đình.
Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người đã
chết cho người còn sống. Thừa kế có hai hình thức đó là thừa kế theo di chúc và
thừa kế theo pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân
sự 2015, thừa kế thế vị là: Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Trường hợp
nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Thừa kế thế vị được phát
sinh trong trường hợp con thay
thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, hoặc cụ nội, cụ ngoại, nếu bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một
thời điểm với những người nói trên.
Khái
niệm về con riêng: Con riêng
là con của một bên vợ hoặc chồng với người khác, cũng có thể là con do người vợ
hoặc người chồng có trước khi kết hôn với nhau. Căn cứ tại khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng
hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình”.
Do đó, để xác định một quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế thì
cần phải xác định quan hệ vợ chồng của bố dượng – mẹ đẻ hoặc bố đẻ - mẹ kế. Điều
này thể hiện ở việc đăng ký kết hôn, bởi khi đăng ký kết hôn hợp pháp và được
pháp luật công nhận thì quan hệ này mới được ghi nhận bằng căn cứ pháp lý hoặc
quan hệ hôn nhân chung sống thực tế được Tòa án thừa nhận. Nó có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của con riêng – cha dượng,
con riêng – mẹ kế từ đó con riêng mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như con đẻ. Căn
cứ theo quy định tại Điều 79 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014 thì quyền, nghĩa vụ của cha dượng, mẹ
kế và con riêng của vợ hoặc của chồng được quy định cụ thể như sau:
“- Cha dượng, mẹ kế có
quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên
kia cùng sống chung với mình theo quy định tại các Điều 69, 71 và 72 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014.
- Con riêng có quyền và
nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình theo
quy định tại Điều 70, Điều 71 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.”
Như vậy, sau khi mẹ đẻ
- cha dượng, cha đẻ - mẹ kế kết hôn với nhau sẽ làm phát sinh quan hệ hôn nhân
gia đình và quan hệ thừa kế theo pháp luật. Vậy, những người con riêng này có
đương nhiên trở thành “cháu” mặc dù không có bất kỳ mối quan hệ huyết thống với
ông bà nội, ngoại hay không? Có làm phát
sinh mối quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp cha dượng, mẹ kế chết trước
ông, bà hoặc chết cùng thời điểm với ông bà thì “cháu riêng” có được hưởng phần
di sản thừa kế hay không? Cũng là một câu hỏi còn nhiều khó khăn trong đường lối
giải quyết. Mặc dù pháp luật không phân biệt con đẻ, con riêng nhưng đối với những
quan hệ lỗi thời trong xã hội đều cho rằng con riêng không được hưởng phần thừa
kế của cha dượng, mẹ kế.
Hiện
nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau khi giải quyết vụ án tranh chấp di sản
thừa kế có “yếu tố con riêng trong thừa kế thế vị”. Người cháu sẽ được hưởng di
sản thừa kế trong trường hợp có di chúc mà người qua đời đã lập, di chúc phải
hợp pháp theo quy định của pháp luật và không thuộc trường hợp cấm của Bộ luật
dân sự. Đối với trường hợp chết mà không để lại di chúc thì Tòa án sẽ xem xét việc
quyết định con riêng
được thừa kế hay không thừa kế di sản của bố dượng, mẹ kế trong nhiều trường hợp là khác nhau. Có trường hợp được hưởng thừa kế nhưng có trường hợp chỉ được trích công sức nuôi dưỡng,
lo ma chay cho họ, có trường hợp không chấp nhận yêu cầu (vì tuy có ăn ở chung,
nhưng Tòa án nhận định bố dượng, mẹ kế không coi con riêng như con hoặc con
riêng không nhìn nhận bố dượng, mẹ kế như cha, mẹ).
Quan
điểm thứ nhất: Từ góc độ thức lý thuyết cũng như thực tiễn: Con riêng được hưởng
di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế. Từ đó sẽ được đương nhiên hưởng thừa kế
thế vị do ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại để lại trong
trường hợp người cha dượng, mẹ kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
để lại di sản.
Để thể hiện tính nhân văn của Luật pháp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho trẻ em, Điều 654 Bộ luật dân sự quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 Bộ luật này”.
Như vậy, giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế sẽ không đương nhiên được thừa kế
mà phải đáp ứng điều kiện có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng qua
lại lẫn nhau thì mới được thừa kế di sản của
nhau theo hàng thừa kế thứ nhất. Hiện tại, để chứng minh mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế như “cha con, mẹ con” thì chưa có quy định, hướng
dẫn nào cụ thể về các vấn đề nêu trên để Tòa án có thẩm quyền có căn cứ xác định thực tế để
quyết định con riêng được thừa kế tài sản của bố dượng, mẹ kế hay không? Do
đó,
vấn đề cần đặt ra là làm rõ quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng thế nào thì mới được
xem là cha con, mẹ con?
Thực tế, để chứng minh được sự “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha mẹ, con”, là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Cần
dựa vào những tiêu
chí nào để đánh giá “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng” và như thế
nào thì được coi là “như cha con, mẹ con”? Qua nghiên cứu cho thấy, tùy từng trường hợp cụ thể,
căn cứ pháp luật, tập quán phong tục mỗi nơi, điều kiện kinh tế các bên, sự lệ
thuộc của con riêng, bố dượng, mẹ kế với nhau….. Tòa án sẽ xem xét giải quyết vụ
án dựa trên một số tiêu chí như sau:
- Tiêu chí thứ nhất: Thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế là bao lâu mới được tính là chăm sóc như cha
con, mẹ con. Thời gian ngắn hay thời gian dài. Từ thực tiễn đã xuất hiện rất
nhiều trường hợp, khi kết hôn thì người con riêng rất yêu thương, quan tâm bố mẹ
nhưng chỉ sống chung được một thời gian ngắn thì bố dượng, mẹ kế đột nhiên qua
đời. Hoặc con riêng chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ kế trong một thời gian dài nhưng
vì công việc nên không thể tiếp tục sống chung nữa thì có thể được hưởng thừa kế
thế vị tài sản của bố dượng, mẹ kế sau khi mất hay không? Hay khi kết hôn người con
riêng còn nhỏ hoặc đã trưởng thành và chỉ sống chung một thời gian ngắn, dài rồi vì điều kiện hoàn cảnh gia đình, người con riêng không còn ở chung nữa nhưng vẫn đi lại thăm nom và chi trả tiền để người khác
nuôi dưỡng, chăm sóc người kia đồng thời gửi tiền cũng như các vật chất khác để
phụng dưỡng bố dượng, mẹ kế. Ngược lại, còn có rất nhiều trường hợp tuy ở cùng
nhà với nhau nhưng giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế chỉ bằng mặt nhưng không
bằng lòng nên việc xác định giữa họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, con;
mẹ con là vô cùng khó khăn.
-Tiêu chí thứ
hai: Xét về mức độ chăm sóc thì
không có sự phân biệt đối xử giữa con riêng của vợ, của chồng với các con chung
của họ, không có sự phân biệt đối xử giữa bố đẻ, mẹ đẻ với bố dượng, mẹ kế.
Việc này được thể hiện trên thực tế quyền và nghĩa vụ: yêu thương, nuôi dưỡng,
giáo dục các con, chăm lo việc học tập và phát triển lành mạnh của con về thể
chất, trí tuệ và đạo đức như chi trả các
khoản chi phí như nuôi dưỡng,
học phí, chi phí phục vụ sinh hoạt, học tập, giáo dục, ăn uống, vui chơi, giải
trí, yêu thương con về vật chất cả tinh thần…như các quy định tại Điều 69,
70, 71, 72 của Luật Hôn nhân và Gia đình
về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con. Theo đó, cha dượng, mẹ kế có
nghĩa vụ và quyền cùng yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của con riêng, chăm lo cho việc học tập và giáo dục con
phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức,… cha, mẹ không được phân biệt
đối xử giữa các con, không ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con,…; con riêng có bổn
phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha dượng, mẹ kế, có quyền và nghĩa vụ
nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ, không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ,…
-
Tiêu chí thứ ba: Có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng qua lại lẫn nhau. Hành
vi chăm sóc sẽ được thể hiện từ hai phía, cha dượng, mẹ kế chăm sóc con cái,
con cái hiếu thuận chăm sóc nuôi dưỡng cha dượng mẹ kế. Nếu hành vi chăm sóc
chỉ được xác nhận từ một phía (người được thừa kế) nhưng về mặt tình cảm họ đối
với nhau không như cha con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật của
nhau không? Ngược
lại, khi người con riêng đã lớn lên và trưởng thành có điều kiện tự chăm lo và
chi trả được các khoản chi phí phục vụ bản thân mà cha dượng, mẹ kế không cần
phải chăm sóc, nuôi dưỡng thì họ có được hưởng thừa kế không?
Sau
khi đã chứng minh được mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng qua lại lẫn nhau giữa
con riêng – bố dượng và con riêng – mẹ kế thỏa mãn với các tiêu chí nêu trên
thì được thừa kế tài sản lẫn nhau. Từ đó sẽ phát sinh thừa kế thế vị. Do vậy căn cứ quy định nêu trên thì con riêng, bố dượng,
mẹ kế chỉ cần có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế như cha, mẹ con
thì được thừa kế tài sản của nhau.
Quan điểm thứ hai cho
rằng: Người
con riêng không được thừa kế thế vị từ ông, bà của cha dượng, mẹ kế. Trong thực
tiễn sinh sống, một số trường hợp sau khi kết hôn và sống chung, con riêng và
bố dượng, mẹ kế không sống chung cùng ông bà, càng không hề có bất kì mối quan
hệ huyết thống nào nên việc ông, bà không có mối quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng
như cháu ruột là đương nhiên. Căn cứ theo Điều 651 BLDS năm 2015 những người thừa kế theo pháp luật được quy
định theo thứ tự sau đây:
-
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
-
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
-
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, căn cứ theo các quy định trên thì về nguyên tắc, giữa
con riêng với bố dượng, con riêng với mẹ kế
không có quan hệ huyết thống thì không nằm trong diện người được hưởng
di sản thừa kế của nhau. Do đó giữa “ông, bà” và “cháu riêng” cũng không hề
có quan hệ huyết thống nên trong trường hợp này con riêng chỉ có mối quan hệ
với cha dượng, mẹ đẻ nên chỉ có thể thừa kế tài sản của những người này. Việc
kết hôn không ghi nhận việc đương nhiên trở thành cháu của bố mẹ người mẹ kế,
bố dượng. Pháp luật cũng chưa có quy định về việc người cháu phải có nghĩa vụ
coi bố mẹ của cha dượng, mẹ kế là ông bà của mình. Bởi giữa họ không có quan hệ
huyết thống hay chăm sóc. Do đó, từ những phân tích trên thì giữa con riêng và
bố mẹ của cha dượng, mẹ kế không thể có quan hệ thừa kế thế vị.
Từ
những quan điểm trên, chúng ta nhận thấy, cần phải có quy định cụ thể hơn về phạm
vi chăm sóc, nuôi dưỡng; về độ tuổi của người được nuôi dưỡng, tránh việc cơ
quan tố tụng vận dụng tràn lan, thiếu thống nhất trong quá trình giải quyết các
vụ kiện chia di sản thừa kế. Việc xây dựng các tiêu chí: thời gian chăm sóc, độ
tuổi….để xác định mối quan hệ như cha mẹ, con là không thể thực hiện được. Hay
nói cách khác, pháp luật cần ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc chăm sóc,
nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa
vụ của con đẻ với cha, mẹ đẻ. Đồng thời, cũng cần quy định rằng việc chăm sóc
lẫn nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không nhất thiết phải dựa trên cơ
sở cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà, bởi vì trên thực tế có rất nhiều
trường hợp người con ở xa (như đi làm xa hoặc có vợ chồng xa) nhưng vẫn luôn
quan tâm, thể hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành động giúp
đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các vật chất khác. Do đó, việc
xác định thế nào là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con không nên chỉ phụ
thuộc vào nơi cư trú của các thành viên trong gia đình.
- Kiến nghị hoàn
thiện pháp luật:
Thứ nhất, cần quy định rõ ràng, chi tiết
và hướng dẫn thi hành cụ thể thi hành Điều 654 BLDS năm 2015 thế nào là
“chăm sóc như cha con, mẹ con” và về việc chia thừa kế có yếu tố con riêng để đảm
báo tính thống nhất, đồng bộ, các quy định không chồng chéo lên nhau nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Cần thừa nhận theo hướng để con riêng, bố
dượng, mẹ kế nếu có quyền thừa kế của nhau thì sẽ được thừa kế ở hàng thứ nhất
như thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua là hợp lý và thuyết phục.
Thứ
hai, Để đảm bảo quyền, lợi
ích của các cháu của người để lại di sản, đặc biệt là trường hợp cháu và chắt
là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Cho nên, BLDS cần quy định bổ sung trường hợp cháu và chắt vẫn được hưởng thừa
kế thế vị của ông, bà trừ trường hợp khi chính con, cháu của họ cũng có một
trong các hành vi vi phạm được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015.
|
Nguyễn
Thị Hồng An
Viện
kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn
|