image banner
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (06/09/2021 03:41 PM)
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (06/09/2021 03:41 PM)

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án số 58/2020/QH14 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 16/6/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021. Với kết cấu 4 Chương, 42 Điều, Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án (viết tắt là Luật HG,ĐTTTA) đã quy định cụ thể nguyên tắc hòa giải, đối thoại; trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án…vv. Luật HG,ĐTTTA cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 Luật HG,ĐTTTA thì hòa giải, đối thoại tại Tòa án được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án chủ yếu dựa trên cơ sở sự tự nguyện thỏa thuận của các bên đồng thời có sự hỗ trợ của Hòa giải viên và sự ghi nhận kết quả thỏa thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo giá trị pháp lý cũng như hiệu lực thi hành, trong đó Nhà nước tạo môi trường, điều kiện để các bên tự hòa giải, thỏa thuận với nhau.

Xuất phát từ bản chất trên, trong Luật HG,ĐTTTA, Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” chỉ có chức năng kiểm sát các hoạt động mang tính tư pháp của Thẩm phán và Tòa án nhân dân trong quá trình hòa giải, đối thoại nhằm góp phần bảo đảm cho hoạt động hòa giải, đối thoại được tuân thủ đúng quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được tôn trọng. Để tạo hành lang pháp lý cho Viện kiểm sát trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Luật HG,ĐTTTA đã có những quy định cụ thể như sau:

Tại Điều 32 Luật HG,ĐTTTA quy định về việc Tòa án phải gửi quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành cho VKS cùng cấp. Theo đó “Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản và tài liệu kèm theo, Thẩm phán được phân công ra Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành… Quyết định này được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án ra quyết định”.

Khi nhận được các quyết định này, Viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các góc độ: thời hạn, thẩm quyền ban hành quyết định; hình thức, nội dung quyết định; thời hạn gửi quyết định; căn cứ pháp lý, nhận định và phần quyết định trong quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án có phù hợp với các quy định của pháp luật, đảm bảo đúng nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định, quyền tự định đoạt của các đương sự và phù hợp với nội dung biên bản ghi nhận kết quả hòa giải hay không; xem xét vụ việc có thuộc một trong các trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo Điều 19 Luật HG,ĐTTTA hay không; quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án có thỏa mãn đồng thời các điều kiện quy định tại Điều 33 Luật HG,ĐTTTA hay không?

Theo quy định tại Điều 34 Luật HG,ĐTTTA thì “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính”. Điều đó có nghĩa là Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các quyết định này. Tuy nhiên, nếu có căn cứ cho rằng “nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này” thì VKS cùng cấp với Tòa án đã ban hành quyết định “có quyền kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án”. (Khoản 3 Điều 36 Luật HG,ĐTTTA). Đó là các trường hợp: Các bên tham gia hòa giải, đối thoại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các bên tham gia không có quyền và nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, thống nhất; Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên không hoàn toàn tự nguyện, vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; các bên thuận tình ly hôn nhưng thỏa thuận của các bên không đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản; thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại và không có ý kiến đồng ý bằng văn bản của họ; các bên thỏa thuận, thống nhất được một phần tranh chấp dân sự, một phần khiếu kiện hành chính nhưng nội dung thỏa thuận, thống nhất này lại liên quan đến các phần khác của tranh chấp, khiếu kiện.

Về thủ tục kiến nghị, Điều 37 Luật HG,ĐTTTA quy định: “Viện kiểm sát kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phải gửi văn bản kiến nghị đến Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.”

Trong trường hợp Viện kiểm sát kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì theo quy định tại Điều 38 Luật HG,ĐTTTA “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hoặc văn bản kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, Tòa án cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án đã ra quyết định chuyển hồ sơ, tài liệu. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, Tòa án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ, tài liệu cho Tòa án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, tài liệu, Tòa án cấp trên trực tiếp phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết; đồng thời thông báo cho người đề nghị, Viện kiểm sát kiến nghị và Viện kiểm sát cùng cấp”.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Trên cơ sở đó, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau: hủy quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và chuyển vụ việc cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính (nếu phát hiện có vi phạm điều kiện quy định tại Điều 33 Luật HG,ĐTTTA); không chấp nhận kiến nghị và giữ nguyên quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; đình chỉ việc xem xét kiến nghị (nếu VKS rút kiến nghị). Các quyết định giải quyết này phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án ra quyết định và Viện kiểm sát đã kiến nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định. Quyết định giải quyết kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. (Điều 38, 39 Luật HG,ĐTTTA)

Với các quy định nêu trên, về hình thức Viện kiểm sát chỉ kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành của Tòa án mà không kiểm sát các hành vi của các chủ thể khác tham gia vào quá trình hòa giải, đối thoại ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, thông qua kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận do Tòa án ban hành, Viện kiểm sát cũng đã gián tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể khác tham gia vào trong quá trình hòa giải đối thoại trước đó.

Tại Điều 35 Luật HG,ĐTTTA quy định: Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và tố tụng hành chính. Quy định này một mặt đảm bảo cho nội dung thỏa thuận thành, đối thoại thành của các bên được thi hành trên thực tế (sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật nếu các bên không tự nguyện thi hành) mặt khác cũng gián tiếp xác định thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc thi hành các quyết định này. Bởi vì Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án dân sự, thi hành án hành chính (Điều 6, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). Thông qua hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát góp phần đảm bảo cho các thỏa thuận, đối thoại thành được thi hành trên thực tế đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.



Ảnh minh họa: Hình ảnh Kiểm sát viên tại một phiên tòa giải quyết vụ án dân sự

Trên thực tế triển khai thi hành Luật HG,ĐTTTA từ ngày 01/01/2021 (thời điểm Luật HG,ĐTTTA có hiệu lực) đến ngày 31/7/2021, Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã ban hành 371 Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Các quyết định này đều được VKS hai cấp tỉnh Nghệ An kiểm sát chặt chẽ theo đúng quy định. Qua kiểm sát cho thấy các quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành đều có căn cứ pháp luật nên VKS không ban hành kiến nghị nào.

Như vậy, Luật HG,ĐTTTA đã bám vào chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được quy định trong Hiến pháp, có các quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Mặc dù không tránh khỏi những khó khăn, bất cập do Luật không quy định Tòa án chuyển tài liệu, hồ sơ kèm Quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành cho Viện kiểm sát cùng cấp  và Viện kiểm sát không trực tiếp tham gia vào các giai đoạn hòa giải, đối thoại mà chỉ kiểm sát các quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành của Tòa án, việc thi hành các quyết định này; nhưng với các quy định viện dẫn trên cũng đã tạo hành lang pháp lý cho Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bên liên quan trong cả quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án; vừa đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận, đối thoại của các bên có liên quan nhưng cũng góp phần làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, thúc đẩy việc đưa Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án vào đời sống xã hội./.

 

 Phương Nam, Mạnh Quyền

Phòng 9 VKSND tỉnh Nghệ An


THÔNG BÁO
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1