Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự trong lĩnh vực Công nghệ thông tin
Có thể nói trong thời gian gần đây, hoạt động tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông bùng phát mạnh dưới nhiều hình thức, đối tượng phạm tội đa dạng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nơi thực hiện tội phạm là không gian mạng (thế giới ảo) nên việc truy vấn, rà soát các đối tượng, địa điểm thực hiện hành vi rất khó khăn. Mặt khác việc thu thập các dữ liệu điện tử (chứng cứ) liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, thời gian chờ đợi lâu nên phần nào đã hạn chế nhiều đến công tác phối hợp, đấu tranh đối với loại tội phạm này. Vừa qua Cơ quan CSĐT, Viện kiểm sát huyện Nghi Lộc đã tiến hành phối hợp giải quyết nhiều vụ án hình sự liên quan đến lĩnh vực này.
Điển hình: Đối tượng Phan Anh Tuấn, sinh ngày 19/03/1997, trú tại thôn Nhan Biều 3, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thông qua mạng internet đã học được cách hack facebook và cách thức chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn Hack tài khoản facebook của những người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài, sau đó nhắn tin đến bạn bè, người thân của những người bị hack facebook nhờ chuyển tiền đến một tài khoản ngân hàng của người khác. (Các tài khoản ngân hàng nhận tiền này là do đối tượng hack facebook của người khác và lừa người thân của những người bị hack facebook này để mở hoặc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng có đăng ký Internet banking, các tài khoản này đối tượng lừa người đi mở tài khoản thêm số điện thoại của đối tượng vào phần thông tin đăng ký sử dụng dịch vụ, với mục địch để nhận mã OTP mỗi lần thực hiện giao dịch và nhận thông báo khi có tiền vào tài khoản). Sau khi biết được cách thức này, Phan Anh Tuấn đã tự lần mò, tìm cách hack tài khoản Facebook của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tổng số tiền mà Phan Anh Tuấn chiếm đoạt thông qua các tài khoản tại ngân hàng Sacombank là 692.207.000 đồng. Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Lộc và và Viện kiểm sát đã thống nhất khởi tố Phan Anh Tuấn về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015. Vụ việc đã được chuyển cho cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền, đã xét xử xong.
Hay như chị Bùi Thị Trang, sinh năm 1995, trú tại xóm Thành Vinh 2, xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, trong khoảng thời gian từ ngày 23/12/2017 đến ngày 07/01/2018, chị Trang đã bị các đối tượng sử dụng fabook có nickname Nguyễn Công Thuận, Hồ Công Huy và các số điện thoại 0976.202.360; 0868.476.223; 01299.998.825 tự nhận là nhân viên của công ty xổ số Miền Bắc yêu cầu chị Trang gửi tiền bằng hình thức thẻ cào điện thoại với số tiền 375.000.000 đồng để cho các con số lô, đề. Quá trình điều tra xác định được, thông qua mạng xã hội Facebook, Lê Văn Vĩnh Tú, sinh năm 2002, trú tại tổ 3, khu vực 1, phường An Hòa, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tạo tài khoản facebook giả mạo để thực hiện hành vi lừa đảo. Cơ quan CSĐT và Viện kiểm sát huyện Nghi Lộc đã thống nhất khởi tố Lê Văn Vĩnh Tú về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Vụ án được chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế giải quyết theo thẩm quyền, đã xét xử xong.
Và mới đây nhất là vụ Phạm Văn Nguyên, trú tại xã Hưng Phúc, huyện Hưng Nguyên, từ tháng 5/2018 đến tháng 02/2019 bằng hình thức đăng tải thông tin, hình ảnh quảng cáo về việc có khả năng cho vay, hỗ trợ tài chính trên mạng xã hội Zalo và sử dụng các tài khoản ngân hàng (ATM) đi mượn của bạn bè, người quen từ đó yêu cầu bị hại chuyển các loại phí theo yêu cầu vào các tài khoản, bằng thủ đoạn này Phạm Văn Nguyên đã lừa đảo chiếm đoạt của chị Trần Thị Thùy Linh, trú tại khối Châu Hưng, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, chị Nguyễn Thị Thùy, trú tại xóm 7, xã Nghi Công Bắc, huyện Nghi Lộc và chị Nguyễn Thu Hằng, trú tại khối 1, phường Quán Bàu, thành phố Vinh với tổng số tiền là 155.500.000 đồng. Vụ án hiện đã được xét xử xong.
Qua công tác kiểm sát giải quyết tin báo, cũng như thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Thứ nhất: Khi tiếp nhận tin báo, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát giải quyết tin báo phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, các tài liệu liên quan để đề ra yêu cầu xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ; có sự phối hợp chặt chẽ hai chiều với cơ quan điều tra. Đây là hoạt động ban đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi môi trường thực hiện hành vi của loại tội phạm này là không gian mạng (thế giới ảo), hình thức thực hiện đăng nhập có thể một hoặc dưới nhiều tài khoản khác nhau nhưng do một người quản lý, cách thức thực hiện thông qua các phương tiện máy tính, điện thoại, các thiết bị kỹ thuật số… có kết nối mạng internet, địa điểm, thời gian thực hiện hành vi có thể bất cứ ở đâu!
Đối với tội phạm trong lĩnh vực này, chứng cứ là các dữ liệu điện tử, được quy định tại Điều 99 BLTTHS năm 2015 như ký hiệu, chữ số, hình ảnh, âm thanh… được truyền đi và nhận được bởi các phương tiện điện tử. Do Dữ liệu điện tử là một loại chứng cứ mới được bổ sung, quy định trong BLTTHS năm 2015 nên trong quá trình thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn.
Trong đó cách thu thập, bảo quản vật chứng như thế nào để đảm bảo tính khoa học, hợp pháp là vấn đề cần đặt ra?
Điều 107 BLTTHS năm 2015 quy định, thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử như sau:
1. Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữa. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật.
Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
….
5. Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo quy định của Bộ luật này. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm theo phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.
Trong thực tiễn các vụ việc xảy ra trong lĩnh vực này chứng cứ thu thập được sẽ là điện thoại, máy tính và các thiết bị kỹ thuật số khác… thì sẽ được sao lưu dữ liệu (nếu có) và niêm phong theo quy định, nhưng đây chỉ là công cụ, phương tiện để các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội.
Việc ngăn chặn, phong tỏa và khóa được các tài khoản (Facebook, Zalo…) mà đối tượng sử dụng làm căn cứ là rất quan trọng, vì đây là chứng cứ để xác định đối tượng đã, đang sử dụng các tài khoản đó để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Nhưng trên thực tiễn lại gặp khó khăn, vì đây thường là các tài khoản ảo, các tài khoản bị hack (tài khoản bị sử dụng trái phép), tài khoản được nhiều đối tượng sử dụng, nên khi có một đối tượng bị phát hiện xử lý, thì lập tức các đối tượng khác ở ngoài sẽ khóa tài khoản này nếu như CQĐT không có biện pháp tiếp cận để sao lưu các tài liệu ngay từ đầu, cũng như sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để khóa hoặc phong tỏa các tài khoản này.
Do vậy đối với loại tội phạm này khi được phát hiện, Kiểm sát viên được phân công phải phối hợp ngay với cơ quan điều tra để tiến hành xác nhận việc đăng nhập của đối tượng (tên đăng nhập, mật khẩu) vào các tài khoản Facebook, Zalo… để chiếm đoạt hoặc sử dụng để chiếm đoạt tài sản bằng cách vừa hỏi, vừa đáp có ghi âm, ghi hình về cách thức thực hiện (như hình thức thực nghiệm điều tra). Sau đó sẽ tiến hành in các dữ liệu dưới dạng tin nhắn từ các tài khoản còn lưu lại cho đối tượng và bị hại ký xác nhận vào các nội dung có sự tham gia của Kiểm sát viên.
- Thứ hai: Phải có các biện pháp phối hợp để nhanh chóng xử lý, thu thập các dữ liệu điện tử từ các cơ quan, công ty liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin.
Có thể nói đây là một Kênh rất quan trọng để thu thập các dữ liệu điện tử làm chứng cứ, ví dụ như trong vụ chị Bùi Thu Trang bị Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Nếu như không có sự phối hợp phúc đáp kịp thời của hệ thống các Ngân hàng Agribank, Sacombank..., Công ty CPTM M-TECH quản lý trang doithe.vn (Đổi từ mệnh giá thẻ cào sang tiền mặt và chuyển vào tài khoản theo yêu cầu của người đổi sau khi đã trừ đi chi phí), các công ty viễn thông khác như Viettel, Vinaphone... thì việc thu thập chứng cứ, đảm bảo về mặt thời hạn để giải quyết vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thực tiễn cho thấy do đảm bảo tính bí mật về thông tin của khách hàng, cũng như một số công ty hoạt động ở lĩnh vực này vẫn còn xảy ra vi phạm pháp luật, vì mục tiêu lợi nhuận... nên cố tình kéo dài hoặc không trả lời các yêu cầu của cơ quan điều tra, dẫn đến vụ việc phải kéo dài.
- Thứ ba: Sau khi thu thập được các tài liệu chứng cứ, Kiểm sát viên cần có sự phân loại, đánh giá để định hướng về mặt tội danh, về thẩm quyền điều tra, các căn cứ để tiến hành khởi tố và áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
+ Qua thực tiễn giải quyết các vụ án về lĩnh vực này, cũng như theo dõi, tổng hợp số liệu từ một số địa phương, nhận thấy việc xác định tội danh vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức chưa thống nhất, cùng một vụ việc nhưng có nơi áp dụng Điều 290 BLHS, Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, có nơi lại áp dụng Điều 174 BLHS về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để xác định hành vi đó phạm tội nào, trước hết ta phải xác định rõ cấu thành mặt khách quan của từng loại tội phạm này trên cơ sở đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được để định tội danh chính xác.
+ Việc khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với loại tội phạm này cũng là vấn đề đặt ra khi giải quyết vụ án. Do đây là loại tội phạm mới hoạt động trên môi trường sử dụng các công cụ, phương tiện có kết nối internet nên có thể thực hiện hành vi bất cứ ở đâu, thời gian bất cứ lúc nào, số lượng người bị hại nhiều, lại ở các tỉnh, thành phố khác nhau... Để đấu tranh xử lý loại tội phạm này, quá trình theo dõi, nhận diện, rà soát đối tượng mất rất nhiều thời gian, và phải có sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an về công nghệ thông tin mới xác định được chính xác vị trí các đối tượng thực hiện hành vi.... nên khi khởi tố áp dụng biện pháp tạm giam để điều tra đối với tội phạm này là cần thiết, vì đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội đối với loại tội phạm này có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà các cơ quan chức năng rất khó kiểm soát. Qua các vụ việc được điều tra xử lý trên địa bàn huyện Nghi Lộc, thì các đối tượng hầu hết đều ở các tỉnh thành khác, số tiền chiếm đoạt lớn, người bị hại hầu hết chỉ giao dịch qua Facebook, Zalo (không gặp trực tiếp) và thực hiện theo yêu cầu của các đối tượng bằng tin nhắn, điện thoại. Ngay từ khi phân loại, cơ quan CSĐT và Viện kiểm sát đều thống nhất phải áp dụng biện pháp tạm giam, đảm bảo việc tạm giam có căn cứ theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015.
+ Về thẩm quyền: Việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ đối với loại tội phạm này cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Do đây là loại tội phạm không trực tiếp thực hiện hành vi với người bị hại mà chỉ thông qua không gian mạng, bằng các tài khoản Facebook, Zalo... đưa ra các yêu cầu từ bất cứ đâu để người bị hại ở một địa điểm khác thực hiện việc chuyển tiền vào các tài khoản, hay thẻ cào điện thoại từ đó đổi thành tiền mặt...Do vậy, việc xác định đúng thẩm quyền điều tra, cũng yêu cầu các Điều tra viên, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật, các lập luận phải dựa trên chứng cứ.
Vụ án Lê Văn Vĩnh Tú, sinh năm 2002, trú tại tổ 3, khu vực 1, phường An Hòa, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 là một ví dụ, bằng thủ đoạn sử dụng fabook có nickname Nguyễn Công Thuận, Hồ Công Huy và các số điện thoại 0976.202.360; 0868.476.223; 01299.998.825 tự nhận là nhân viên của công ty xổ số Miền Bắc, Tú đã yêu cầu chị Bùi Thị Trang, trú tại xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc gửi tiền bằng hình thức thẻ cào điện thoại với nhiều mệnh giá khác nhau tương đương số tiền 375.000.000 đồng để cho các con số lô, đề. Sau khi nhận được các mã cào điện thoại Tú đã thông qua Công ty CPTM M-TECH quản lý trang doithe.vn để đổi các mã thẻ cào thành tiền mặt chuyển vào tài khoản của mình. Quá trình giải quyết đã có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền xử lý vụ án.
Khi tiếp nhận hồ sơ vụ án Kiểm sát viên đã căn cứ vào các quy định của Điều 163 và Điều 269 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền điều tra và thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, về cấu thành mặt khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS, từ đó xét thấy hành vi của các đối tượng liên quan đều được thực hiện tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, hình thức thông qua trang mạng xã hội sử dụng facebook và điện thoại di động. Việc nhận các mã thẻ cào từ chị Bùi Thị Trang gửi từ huyện Nghi Lộc và tiến hành đổi thẻ ra tiền mặt để rút qua các cột ATM (hoàn thành hành vi chiếm đoạt) đều được thực hiện tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Với những căn cứ này Viện kiểm sát huyện Nghi Lộc đã có đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ra Quyết định chuyển vụ án hình sự đến cơ quan CSĐT Công an thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để giải quyết theo thẩm quyền và được Viện kiểm sát tỉnh đồng ý, cơ quan CSĐT thành phố Huế tiếp nhận, đến nay đã xét xử xong.
- Thứ tư: Phải thường xuyên trao đổi, báo cáo để nhận được sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời của các phòng nghiệp vụ, Lãnh đạo Viện KSND tỉnh đảm bảo việc giải quyết vụ án có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Trên đây là một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin, rất mong sự góp ý, chia sẻ của các đồng nghiệp để góp phần giải quyết có hiệu quả đối với loại tội phạm này trong thời gian tới.
Nguyễn Chí Cường - Phó Viện Trưởng
Viện KSND huyện Nghi Lộc