image banner
Những điểm mới của Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp

Ngày 22/6/2023, Viện trưởng VKSND tối cao đã ký Quyết định số 222/QĐ-VKSTC ban hành Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (gọi tắt là Quy chế 222), thay thế Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao (gọi tắt là Quy chế 51). Quy chế 222 có nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung mới so với Quy chế 51 như sau:

- Tại Điều 1của Quy chế 222: Giải quyết đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu không có nội dung liên quan đến khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế này.

- Tại Điều 2 của Quy chế 222 về giải thích từ ngữ, đã xem xét cả quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi và bổ sung khái niệm thế nào là đơn không đủ điều kiện thụ lý, đơn chưa đủ điều kiện thụ lý.

- Tại Điều 8 Quy chế 222 đã sửa đổi quy định về trách nhiệm xử lý, quản lý, giải quyết hoặc kiểm sát giải quyết đối với đơn liên quan đến kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính. Theo đó, khi nhận được đơn liên quan đến các lĩnh vực nêu trên, Đơn vị kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp chuyển đơn đến Đơn vị được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính để xử lý, quản lý, giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết theo thẩm quyền. Ngoài ra Điều 8 Quy chế 222 cũng bổ sung quy định việc tiếp nhận, xử lý đối với đơn gửi đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao tại khoản 2 điều này.

- Tại Điều 9 Quy chế 222 về các tiêu chí phân loại và xử lý đơn đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung phù hợp với thực tiễn, cụ thể như sau: Phân loại theo thẩm quyền gồm: Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết; đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết; đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết. Phân loại theo điều kiện thụ lý gồm: Đơn đủ điều kiện thụ lý, đơn chưa đủ hoặc không đủ điều kiện thụ lý. Phân loại theo nội dung gồm: Đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu.

Quy chế mới đã quy định rõ ràng và linh hoạt hơn về các trường hợp xếp lưu đơn để giải quyết kịp thời những khó khăn trong thực tiễn xử lý đơn. Cụ thể, về xếp lưu đơn gồm: Đơn có cùng nội dung đã ghi kính gửi nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, trong đó có cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền giải quyết và cơ quan có thẩm quyền kiểm sát (trừ đơn quy định tại khoản 4 Điều 10 Quy chế); đơn đã được hướng dẫn một lần về cùng nội dung; đơn không đủ điều kiện thụ lý và đã có văn bản trả lại đơn theo quy định tại điểm b khoản 6 Điều 9 Quy chế; đơn rách nát, tẩy xóa chữ và không đọc được; đơn viết bằng tiếng nước ngoài không kèm theo bản dịch được công chứng; đơn dùng những từ ngữ không phù hợp với chuẩn mực văn hóa và thuần phong mỹ tục (đơn có lời lẽ thô tục, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị;…); đơn đã được các cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng quy định nhưng không cung cấp được tài liệu gì mới phát sinh; đơn có nội dung chống đối đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc có nội dung chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo...

Thời hạn lưu trữ các loại đơn là 1 năm, việc tiêu hủy đơn do thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định.

- Tại Điều 13 Quy chế 222, bổ sung trường hợp thụ lý kiểm tra lại tại điểm b khoản 1 đó là “bỏ lọt tội phạm; … đơn có tình tiết mới làm thay đổi kết quả giải quyết khiếu nại nhưng Viện kiểm sát đã ban hành quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật không xem xét” để bảo vệ quyền và lợi ích của người khiếu nại.

Bổ sung quy định về thẩm quyền kiểm tra lại tại điểm b khoản 2 đoạn 2 của VKSND cấp cao trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử cho phù hợp với quy định của pháp luật: “Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát cấp tỉnh về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử do Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kiểm tra.”

Bổ sung tại khoản 3 quy định về thời hạn cho ý kiến đối với vụ việc kiểm tra của các đơn vị phối hợp nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong việc kiểm tra lại: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị phối hợp kèm theo hồ sơ tài liệu có liên quan thì đơn vị phối hợp phải có ý kiến quan điểm xử lý vụ việc gửi đơn vị chủ trì; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn cho ý kiến có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày.”

Bổ sung quy định về thẩm quyền kiểm tra lại tại điểm b khoản 2 đoạn 2 của VKSND cấp cao trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử cho phù hợp với quy định của pháp luật: “Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát cấp tỉnh về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử do Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kiểm tra.”

Bổ sung tại khoản 3 quy định về thời hạn cho ý kiến đối với vụ việc kiểm tra của các đơn vị phối hợp nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong việc kiểm tra lại: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị phối hợp kèm theo hồ sơ tài liệu có liên quan thì đơn vị phối hợp phải có ý kiến quan điểm xử lý vụ việc gửi đơn vị chủ trì; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn cho ý kiến có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày.”

- Tại Điều 16 Quy chế 222 đã bổ sung quy định về thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết khiếu nại đối với hành vi của người có thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xem xét quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Tại Điều 17 Quy chế 222 đã bổ sung các biện pháp kiểm sát được áp dụng trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Cụ thể, tại điểm a khoản 3 Điều 17 được sửa đổi để phù hợp với quy định của Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC, Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, đã bổ sung quy định: Viện kiểm sát được áp dụng thêm biện pháp: Yêu cầu Tòa án cùng cấp và Tòa án cấp dưới cung cấp hồ sơ, tài liệu... theo quy định tại Khoản 3, Điều 34 Thông tư 02 ngày 31/8/2016 (trong tố tụng dân sự) và Khoản 3, Điều 31 Thông tư 03 ngày 31/8/2016 (trong tố tụng hành chính).

 

Trên đây là một số điểm mới cần lưu ý khi nghiên cứu, triển khai thực hiện Quy chế 222 để các đơn vị tham khảo, nghiên cứu thực hiện thống nhất, đúng quy định./.

 

                                                                        Nguyễn Ngọc Vinh

                                                               Chánh Thanh tra - Khiếu tố

 

THÔNG BÁO
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1